Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

Bí quyết phong thủy 'mời gọi' sự giàu có, của cải và thịnh vượng

- Khu vực tiền bạc tốt: Xác định rõ khu vực phong thủy tiền bạc trong nhà của bạn và chăm sóc nó thật tốt. Nếu nó nằm trong phòng tắm, cần giải quyết vấn đề với những giải pháp thích hợp.
Phong thủy đơn giản là có thể cải thiện sự giàu có cho nơi làm việc hoặc nhà ở của bạn.

Bạn có biết phong thủy là gì? Bạn muốn đem phong thủy vào nhà của mình? Hãy đến với web phong thủy của chúng tôi để cập nhật ngay phong thủy sân vườn, phong thủy văn phòng, phong thủy phòng tắm.
Các chuyên gia về phong thủy khẳng định rằng nó cho bạn sự hỗ trợ cần thiết để tìm kiếm sự giàu có, của cải và sự thịnh vượng. Phong thuỷ giúp bạn sử dụng nhiều giải pháp khác nhau để tạo nên một môi trường - ở nơi làm việc và cả ở nhà - sẽ tiếp thêm sức mạnh cho bạn và thu hút những năng lượng phong thủy của sự thịnh vượng và giàu có.


Sự giàu bào gồm từ tài chính, cho đến sức khỏe và các mối quan hệ hòa hợp trong gia đình.  Nếu biết áp dụng các lời khuyên phong thủy thích hợp thì việc tạo ra sự giàu có cho gia đình không hề khó .

Các giải pháp phong thủy cổ điển đã được con người sử dụng trong nhiều thế kỷ qua để thu hút sự giàu có như: cây tiền, bình tài lộc, thuyền tài lộc, tượng Phật cười, tiền xu cổi…


- Giữ không gian sạch sẽ và ngăn nắp: Việc cần làm hiện giờ là bạn cần tống khứ những bẩn thỉu, lộn xộn ra khỏi ngôi nhà hoặc nơi làm việc của bạn. Vì một không gian hỗn độn không thể giữ năng lượng và thu hút sự giàu có.

- Khu vực tiền bạc tốt: Xác định rõ khu vực phong thủy tiền bạc trong nhà của bạn và chăm sóc nó thật tốt. Nếu nó nằm trong phòng tắm, cần giải quyết vấn đề với những giải pháp thích hợp.


Luôn giữ cho không gian sinh sống và làm việc sạch sẽ để năng lượng giàu có lưu lại thật lâu.

- Cửa ra vào thật mạnh mẽ: Bạn chắc chắn rằng hãy bảo vệ nó - nếu cần thiết với biểu thượng phong thủy của sự phong phú, bảo vệ và may mắn.

- Trưng bày các biểu tượng của sự giàu có: Bạn có thể lựa chọn biểu tượng cổ điển như thuyền tài lộc, hoặc biểu tượng đại diện cho năng lượng giàu có của riêng bạn.


Nên trưng bày một vài biểu tượng phong thủy tượng trưng cho sự giàu có trong nhà.

- Sử dụng bể cá cảnh: Trang trí ngôi nhà hay văn phòng của bạn với một bể cá cảnh phong thủy để thu hút nguồn khí tài lộc, hoặc biểu tượng/hình ảnh phong thủy cụ thể về cá.


Bể cá được biết đến là một giải pháp tăng cường tài lộc hữu hiệu.

- Các loại đá phong thủy: Bạn có thể trưng bày những loại đá này trên cây tài lộc phong thủy ở góc nhà. Đá citrine được biết đến là có khả năng thu hút sự giàu có. vì thế, nó thường được sử dụng trong các ứng dụng phong thủy. Ngoài ra, một loại đá phong thủy đại diện cho sự giàu là đá pyrit.

Đá citrine loại đá này là lựa chọn trang sức phong thủy tuyệt vời dành cho bạn, vì năng lượng của nó giúp làm tăng lòng tự trọng, sự tự tin giúp chủ nhân vượt qua được khó khăn, nỗi buồn, đau khổ trong cuộc sống. Vì vậy, .


Đeo hoặc trang trí đá phong thủy giúp cải thiện vận mệnh cho nhà ở cũng như bản thân chủ nhân.

- Sử dụng đài phun nước: Nước là yếu tố luôn đi liền cùng sự giàu có và đại diện cho tài lộc. Giải pháp phong thủy rất mạnh mẽ để “lôi kéo” năng lượng của sự giàu có và nguồn khí tươi mới là bạn hãy bố trí đài phun nước, biểu tượng phong thuy đài phun nước hoặc sử dụng hình ảnh dòng nước chảy như biển, thác nước, dòng sông…

Hình ảnh nước phong thủy với con sóng, tung bọt trăng xoá và khung cảnh thiên nhiên cởi mở, hùng vĩ nó sẽ có tác động đặc biệt mạnh mẽ trong các ứng dụng phong thủy giàu có.


Hồ cá, hay những thứ có liên quan tới nước đặt trong nhà không chỉ làm đẹp, mà còn kích thích sự thịnh vượng.

- Dòng chảy khí mạnh mẽ và thường xuyên: Một dòng chảy khí mạnh mẽ, tươi mới đi kèm với các biểu tượng phong thủy tài lộc khác chắc chắn là mục tiêu của bạn nếu bạn đang tập trung vào việc thu hút năng lượng của sự giàu có và thịnh vượng.

Nhiều triệu phú Châu Á, bạn có biết rằng họ không bán nơi ở hoặc nơi làm việc - thuộc sở hữu riêng - trong khí tích lũy được sự giàu có? Họ hiểu biết sức mạnh phong thủy của không gian, họ giữ chúng vì những may mắn và tài lộc.

Phong Thủy Phòng Tắm
Phong Thủy Sân Vườn
Phong Thủy Văn Phòng
Tên Phong Thủy
Thuật Phong Thủy

Ngôi nhà nhỏ đầy tiện nghi theo phong cách Bắc Âu

Trong khi đó, bên cạnh ghế sofa, bàn bằng gỗ cũng bố trí một cách khéo léo hài hòa giữa mộc mạc cổ điển và hiện đại.
Mặc dù có diện tích khiêm tốn với 34 m2 nhưng nhờ bố trí nội thất hợp lý, ngôi nhà sau đây ở Bắc Âu vẫn rất thoải mái với đầy đủ các phòng chức năng.

Bạn có biết phong thủy là gì? Bạn muốn đem phong thủy vào nhà của mình? Hãy đến với web phong thủy của chúng tôi để cập nhật ngay phong thủy sân vườnphong thủy văn phòngphong thủy phòng tắm.

Đầu tiên bạn sẽ rất ấn tượng khi bước vào ngồi nhà nhỏ này là cách bài trí nội thất đầy phong cách hiện đại. Lối trang trí thanh lịch và một không gian thoáng mát.

Không gian sống vẫn đầy đủ các phòng chức năng như phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp và phòng tắm rộng rãi, thoáng đãng.

Các khu vực sinh hoạt, nhà bếp và bàn ăn được tổ chức trong một bố trí mở.


Màu sắc trong nhà không quá nổi bật mà chủ yếu là các tông màu nhẹ nhàng. Tuy nhiên, các chi tiết trang trí đã khéo léo bổ sung để tạo điểm nhấn. Các bức tranh nghệ thuật, thảm trải sàn mang phong cách Bắc Âu.


Chủ nhân ngôi nhà tạo điểm nổi bật là thay vì dùng tường bê tông để ngăn cách nhưng lại chọn kính ngăn để phân chia khu vực sinh hoạt. Điều này giúp mang đến cảm giác nhà rộng hơn và mang phong cách hiện đại.

Trong khi đó, bên cạnh ghế sofa, bàn bằng gỗ cũng bố trí một cách khéo léo hài hòa giữa mộc mạc cổ điển và hiện đại.


Và khi nói đến ngôi nhà theo phong cách Bắc Âu, không thể thiếu một sân thượng như thế này.


Các ban công nhỏ mở rộng thêm không gian sống, tạo ra một địa điểm quyến rũ để uống cà phê và ăn sáng trong buổi sáng mùa hè ấm áp.

Phong Thủy Phòng Tắm
Phong Thủy Sân Vườn
Phong Thủy Văn Phòng
Tên Phong Thủy
Thuật Phong Thủy

Phong Thủy là gì?

Phong Thuỷ có vai trò rất to lớn, nhưnn nó chỉ hỗ trợ và có tác dụng cải biến chứ không thể làm thay đổi hoàn toàn mệnh vận...
Phong thủy nguyên là một khoa học của người Trung Hoa, có từ khoảng 4000 năm trước. Là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của địa lý, hướng gió, hướng khí và mạch nước đến đời sống hoạ phúc và đời sống của con người.

Bạn có biết phong thủy là gì? Bạn muốn đem phong thủy vào nhà của mình? Hãy đến với web phong thủy của chúng tôi để cập nhật ngay phong thủy sân vườnphong thủy văn phòngphong thủy phòng tắm.


La bàn Phong thuỷ.

Phong thủy Thuở họ còn sống dọc hai bên lưu vực sông Hoàng Hà, việc mùa màng, no đói của họ phụ thuộc vào chuyện mưa gió của trời đất, họ đã nghiên cứu nó để cho vụ mùa tốt và đã sinh ra khoa Phong thủy.



- Phong có nghĩa là "gió", là hiện tượng không khí chuyển động.

- Thủy có nghĩa là "nước", là dòng nước, tượng trưng cho địa thế.

Phong Thuỷ có vai trò rất to lớn, nhưnn nó chỉ hỗ trợ và có tác dụng cải biến chứ không thể làm thay đổi hoàn toàn mệnh vận...

Các kiến thức Phong Thủy chủ yếu mang đến cho chúng ta cơ hội được sống hạnh phúc, khoẻ mạnh và sung túc vì ý nghĩa căn bản của Phong Thủy là giữ gìn và duy trì một cuộc sống hài hoà với môi trường xung quanh ta.

Phong thủy  liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Không phải là yếu tố đơn lẻ mà là tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng.  Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp.

Thuật phong thủy không những giúp cho ta cách bài trí, chọn màu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống.

Phong thuỷ hoàn toàn không mang tính tín ngưỡng hoặc mê tín dị đoan mà là một phương pháp khoa hoc. Là hệ quả của một tri thức nghiên cứu về các qui luật tương tác của thiên nhiên, môi trường và là phương pháp thay đổi những hiệu ứng tương tác của môi trường lên cuộc sống của con người.



Ngày nay, dù ở Phương Tây hay ở Phương Đông khi xây dựng nhà ở đều phải chọn những vị trí hợp với môi trường địa lí xung quanh địa bàn địa thế, dù theo một lối kiến trúc nào thì cũng phải căn cứ vào địa thế xung quanh để tạo dựng một kiến trúc đẹp về thẩm mĩ, lợi về sinh hoạt.

Nhiều nước tiên tiến trên thế giới đã có những cơ quan nghiên cứu về phong thuỷ. Ở Việt Nam, phong thủy có từ thời vua Hùng. Đặc biệt trong các cung điện, đền thờ đều được xây dựng với sự hợp lí cao về phong thủy.

Thuật phong thủy, hình thành nên nhiều trường phái khác nhau trong lịch sử phát triển, mỗi trường phái có phương pháp lí luận và ứng dụng riêng, thậm chí có khi đối lập nhau dựa trên những suy luận khác biệt nhau. Nếu chúng ta loại bỏ những cách giải thích rời rạc, bí ẩn về những khái niệm trong phong thuỷ thì những phương pháp ứng dụng trên thực tế của phong thuỷ hoàn toàn mang tính khách quan, tính quy luật, tính nhất quán và khả năng tiên tri. Đấy là những yếu tố thoá mãn tiêu chí khoa học.

Ngày nay, phong thủy áp dụng chủ yếu trên lĩnh vực vào nhà ở như nghệ thuật trang trí nhà cửa và văn phòng làm việc, cơ sở thương mại, để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, công việc làm ăn thuận lợi, khả quan hơn.

Dù vẫn còn vẻ huyền bí , vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thống nhất nhưng phong thủy rất thực tế và gần gũi với đời sống con người. Việc thể hiện những lý thuyết của thuật Phong Thủy vào cuộc sống chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích cụ thể chúng ta, cho dù chúng ta chỉ mới hiểu biết sơ qua về chúng.

Phong Thủy Phòng Tắm
Phong Thủy Sân Vườn
Phong Thủy Văn Phòng
Tên Phong Thủy
Thuật Phong Thủy

Truyền Thuyết Về Tam Đa Phúc Lộc Thọ

Nhân dân lại nói điều hai: Xin cầu chúc nhà vua thật phú quý nhiều lộc, nhà vua cũng từ chối và nói tránh đi.
Tam Đa Phúc Lộc Thọ - Tiêu biểu cho hạnh phúc lớn nhất của con người

Phúc Lộc Thọ hay Phước Lộc Thọ là thuật ngữ thường được sử dụng trong văn hóa Trung Hoa và những văn hóa chịu ảnh hưởng từ nó, để nói về ba điều cơ bản của một cuộc sống tốt đẹp là: những điều lành (Phúc), sự thịnh vượng (Lộc), và tuổi thọ (Thọ). Mỗi điều tượng trưng cho một vị thần, ba vị này thường gọi chung là ba ông Phúc-Lộc-Thọ hay Tam Đa, và thường không được tách rời.


Tam Đa Phúc Lộc Thọ

Bạn có biết phong thủy là gì? Bạn muốn đem phong thủy vào nhà của mình? Hãy đến với web phong thủy của chúng tôi để cập nhật ngay phong thủy sân vườnphong thủy văn phòngphong thủy phòng tắm.



I. Sự Tích 1

Truyền thuyết kể rằng: Đời thượng cổ ở Trung Quốc, tương truyền vua Nghiêu, vị Hoàng đế hiền minh thời thịnh trị, thái bình, nhân dịp tiết xuân đi thưởng ngoạn cảnh xuân và thị sát vùng đất Hoa Phong để hiểu thêm nhân tình thế thái. Nhân dân đã chúc tụng nhà vua ba điều:

Một là, kính chúc nhà vua trường thọ, vua Nghiêu không nhận.

Nhân dân lại nói điều hai: Xin cầu chúc nhà vua thật phú quý nhiều lộc, nhà vua cũng từ chối và nói tránh đi.

Nhân dân lại chúc tiếp điều thứ ba: Chúc nhà vua sinh nhiều con trai, tỏa phúc ấm cho cả Hoàng tộc. Vua Nghiêu vẫn không chấp nhận mà thay mặt triều đình ban những lời chúc tụng đó thành ba điều chúc: “Đa phúc, đa lộc, đa thọ” gọi là “Tam đa” cho cả trăm họ.

Từ đó, Tam đa trở thành lời chúc nhau trong những ngày tết đến, xuân sang. Và ôngng từ đó có tượng ba ông “Tam đa”.

II. Sự tích 2

Có một sự tích khác đầy ấn tượng kể về 3 nhân vật này. Chuyện xưa bên Tàu, hình tượng Phúc Lộc Thọ xuất phát từ ba con người có thật ở ba triều đại phong kiến Trung Quốc.


Phúc Lộc Thọ

Theo truyền thuyết của người Hoa Hạ, ông Lộc là một quan tham chuyên ăn đút lót. Ông Thọ lại là vị quan thực dụng, ưa xu nịnh vua để được ban thưởng, trong dinh của ông cung nữ nhiều chẳng kém ở cung vua. Chỉ có ông Phúc là quan thanh liêm, ngay thẳng, con cháu đề huề.

1. ÔNG PHÚC

Ông Phúc tên thật là Quách Tử Nghi. Thừa tướng đời nhà Đường. ông xuất thân vốn là quý tộc, đồng ruộng bát ngát hàng trăm mẫu, nhưng suốt cuộc đời tham gia triều chính, ông sống rất liêm khiết, thẳng ngay. Không vì vinh hoa, phú quý mà làm mất nhân cách con người.

Ông Phúc bồng trên tay đứa bé ngũ đại

Cụ bà và Cụ ông bằng tuổi nhau. Người Việt ta có câu: “cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”. Còn theo người Hoa Hạ ở Trung Nguyên thì vợ chồng cùng tuổi là rất tốt. Họ có thể điều hòa sinh khí âm, khí dương cho nhau. Vì vậy, có thể bớt đi những bệnh tật hiểm nguy. Lại cùng tuổi nên dễ hiểu nhau, dễ thông cảm cho nhau, nên hai ông rất tâm đầu, ý hợp. Hai cụ 83 tuổi đã có cháu ngũ đại. Lẽ dĩ nhiên phải là nam tử rồi. ông Phúc thường bế đứa trẻ trên tay là như vậy.

Theo phong tục người Hoa cổ đại, sống đến lúc có cháu ngũ đại giữ ấm chân nhang của tổ tiên là sung sướng lắm lắm! Phúc to, phúc dày lắm lắm! Bởi thế ông mới bế thằng bé, cháu ngũ đại, đứng giữa đời, giữa trời, nói:

- Nhờ giời, nhờ phúc ấm tổ tiên, ta được thế này, còn mong gì hơn nữa. Rồi ông cuời một hơi mà thác. Được thác như ông mới thực sự được về cõi tiên cảnh nhàn du.
ông bà ra ôm lấy thi thể cụ ông và chít nội than rằng:

- Tôi cùng tuổi với chồng tôi. Phúc cũng đủ đầy, dày sâu, sao trời chẳng cho đi cùng…

Ai có thể ngờ, nói dứt lời cụ bà cũng đi luôn về nơi chín suối. Hai cụ được con cháu hợp táng. Vậy là sống bên nhau, có nhau, chết cùng ở bên nhau, có nhau. Hỏi còn phúc nào bằng. Và ông được người đời đặt tên là Phúc.

2. Ông Lộc

Ông Lộc tên thật là Đậu Từ Quân, làm quan đến chức Thừa tướng nhà Tấn. Nhưng ông Đậu Từ Quân là một quan tham. Tham lắm. ông hưởng không biết bao nhiêu vàng bạc, châu báu, là của đút lót ônga những kẻ nịnh thần, mua quan, bán tước, chạy tội cho chính mình, cho con, cho cháu, cho thân tộc.

Ông Lộc (Thần Tài) với hình ảnh giàu sang phú quý

Trong nhà ông, của cải chất cao như núi. Tưởng ông Đậu Từ Quân được như thế đã là giàu sang, vinh quang đến tột đỉnh. ông chỉ hiềm một nỗi, năm ông tám mươi tuổi vẫn chưa có đích tôn. Do vậy ông lo nghĩ buồn rầu sinh bệnh mà chết. ông ốm lâu lắm. Lâu như kiểu bị tai biến mạch máu não bây giờ. ông nằm đến nát thịt, nát da, mùi hôi thối đến mức con cái ông không dám đến gần. Đến khi chết, ông ôngng không nhắm được mắt. ông than rằng:
- Lộc ta để cho ai đây? Ai giữ ấm chân nhang cho tổ tiên, cho bản thân ta?

3. Ông Thọ

Ông Thọ tên là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng đời Hán. Triết lý làm quan của ông Đông Phương Sóc là quan thì phải lấy lộc. Không lấy lộc thì làm quan để làm gì. ông coi buôn chính trị là buôn khó nhất, lãi to nhất. Nhưng ông Đông Phương Sóc vẫn là quan liêm. Bởi ông nhất định không nhận đút lót. ông chỉ thích lộc của vua ban thưởng.
Ông Thọ sống đến 125 tuổi

Được bao nhiêu tiền thưởng, ông lại đem mua gái đẹp, gái trinh về làm thê thiếp. Người đương thời đồn rằng, trong dinh ông, gái đẹp nhiều đến mức chẳng kém gì cung nữ ở cung vua. Ông thọ đến 125 tuổi. Nên người đời mới gọi ông là ông Thọ. Trước khi về chốn vĩnh hằng, ông Thọ còn cưới một cô thôn nữ xinh đẹp mới mười bảy tuổi. ông Đông Phương Sóc bảo, ông được thọ như vậy là nhờ ông biết lấy-âm-để-dưỡng-dương.

Do ông Đông Phương Sóc muốn có nhiều tiền để mua gái trẻ làm liều thuốc dưỡng dương, cho nên suốt cuộc đời cũa ông, ông chỉ tìm lời nói thật đẹp, thật hay để lấy lòng vua. Có người bạn thân khuyên ông:

- Ông làm quan đầu triều mà không biết tìm lời phải, ý hay can gián nhà vua. Ông chỉ biết nịnh vua để lấy thưởng thì làm quan để làm gì.
ông Đông Phương Sóc vuốt chòm râu bạc, cười khà khà bảo:

- Làm quan không lấy thưởng thì tội gì mà làm quan. Can gián vua, nhỡ ra vua phật ý, tức giận, chém đầu cả ba họ thì sao?

ông Đông Phương Sóc 125 tuổi mới chịu từ giã cõi đời. Khi ông chết thì con không còn, cháu cũng đã hết cơm hết gạo mà chắt đích phải làm ma, phải thay cha, thay ông, chở ông nội. Vậy làm quan như ông, Thọ như ông phỏng có ích gì?

Qua ba bức tượng Phúc, Lộc, Thọ người đời thấy, người Hoa Hạ thật là tài giỏi. Họ đã khéo xếp ba vị thừa tướng, ba tính cách khác nhau ở ba triều đại khác nhau để răn đời.

Trong ba điều ước Phúc, Lộc, Thọ ấy chỉ có thể được một mà thôi.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc Lộc Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu theo Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?

Thực ra khi thờ 3 ông này người ta đã khôn khóe xắp xếp để chúng ta có được cả 3 cái mà người đời ai cũng mong, chứ ko phải muốn chúng ta học tính cách ông này ông kia.

Sự Tích Về Thần Tài Ông Địa Ngày Tết

Mọi người thấy vậy liền lột sạch hết quần áo mũ nón của Thần Tài và đem đi bán, Thần Tài tỉnh dậy không có quần áo trên người và do bị va đầu vào đá nên không nhớ mình là ai.

Tục thờ Ông Địa - Thần tài, có lẽ nguồn gốc bắt đầu từ Trung Quốc rồi sau đó lan dần sang các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, người xưa quan niệm thờ cúng Ông Địa-Thần tài trong nhà để cầu mong cho gia đình êm ấm, làm ăn phát tài phát lộc.

Sự tích ông địa Thần Tài

Sự tích về Thần Tài Ông Địa

Tín ngưỡng thờ thần là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt. Ngay từ buổi đầu hình thành nhà nước sơ khai, người ta đã biết thờ phụng các vị thần tự nhiên, siêu nhiên, như: thần Đất, thần Mây, thần Mưa, than Gió, thần Sấm... Tín ngưỡng thờ thần này bắt nguồn từ tâm lý e sợ các hiện tượng tự nhiên mà họ chưa lý giải được trong thời điểm lúc bấy giờ.
Và đó cũng là tâm lý thể hiện sự tri ân đến các sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh đã tạo cho họ có được môi trường sống, và làm cho cuộc sống của họ được giàu có, sung túc và bình an.



1. Sự Tích Ông Địa

Trong đời sống trước đây của dân tộc Việt thì phần lớn dựa vào nông nghiệp, mà nông nghiệp thì lại phụ thuộc rất nhiều các điều kiện tự nhiên như: đất đai, thời tiết, khí hậu... trong đó có thể nói, đất đai được xem là yếu tố cơ bản cấu tạo nên vạn vật, giúp cho người ta có được cuộc sống ấm no và sung túc. Vì vậy, thần Đất hay Thổ Thần là một trong những vị thần được cư dân nông nghiệp luôn để tâm đến trước nhất.


Tượng Ông Địa

Như chúng ta đã biết, Nam Bộ là một vùng đất mới, ngay từ những bước chân đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này thì vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đầm lầy nê địa, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ tràn đầy... Mọi thứ ở đây hoàn toàn lạ lẫm đối với họ, từ tiếng chim kêu, tiếng cá vẫy vùng... đến tiếp cọp rống, gió rít đều gây cho họ một cảm giác lo sợ.

"Tới đây xứ sở lạ lùng,
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê"

Người dân lúc đó nghĩ vùng đất Nam Bộ này, từ khu rừng, con sông, vùng đất... đâu đâu cũng có các vị thần cai quản. Để được yên ổn làm ăn, họ phải khấn vái, cúng kiến cho các thần để các thần phù hộ cho họ có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình an. Vì lẽ đó mà Thổ Địa được họ sùng kính và tôn thờ. Họ xem Thổ Địa như là một vị thần bảo hộ cho một mảnh vườn, thửa ruộng của họ....

Về hình tượng Ông Địa ở Nam Bộ thì tượng Ông Địa hay tranh vẽ thường là một người trung niên mập mạp, bụng bự, vú lớn, miệng cười hể hả, tay cầm quạt, tay cầm điếu thuốc lá... trông có vẻ phương phi, hào sảng và mang đầy chất phong thịnh. Và nó cũng mang chút hơi hướm của sự hài hước. Đây cũng là một đặc trưng trong tính cách của người Nam Bộ.

su tich ong dia

Tượng ông Địa

Người Nam Bộ thường có tâm lý tin vào thần thánh nhưng đôi khi họ cũng không tuyệt đối hóa sự thờ phụng này. Khi họ tin vào Ông Địa, họ thờ cúng Ông Địa quanh năm nhưng đôi khi mùa màng thất bát, buôn bán lỗ lã họ van vái Ông Địa nhiều lần, nhưng cuộc sống vẫn không khá hơn, họ sẵn sàng đem Ông Địa bỏ ở gốc cây, kẹt đá, hoặc quăng xuống sông.

Vì lẽ đó mà Ông Địa ở Nam Bộ dường như có khoảng cách rất ngắn với con người, ông như một vị thần dân dã luôn gần gũi với cuộc sống của con người. Chính điều này đã dẫn đến hàng loạt các giai thoại về Ông Địa do dân gian sáng tác, nhằm giải thích các đặc điểm về hình thể ông cũng như để giải thích một số sự việc, hiện tượng mà người ta không thể lý giải được trong cuộc sống của mình.

Trong "Sự tích Ông Địa bụng bự" có kể rằng:

“Ngày xưa, Ông Địa cũng có cái bụng bình thường như bụng của mọi người. Thuở đó, Ông Địa có kết thân với Hà Bá. Trong vùng có một mụ góa bụa, tính khí rất chua ngoa, nhưng mụ lại có cô con gái rất đẹp. Mụ mắc phải cái tật, hễ cất tiếng chửi con thì y như có mấy lời đầu lưỡi:

- Má mày Hà Bá!

Thấy vậy, Ông Địa mới tìm gặp Hà Bá, vừa thiệt, vừa giỡn, bảo rằng:

- Nè Hà Bá, anh tốt phước quá! Ở đây, ngày nào cũng có người nói muốn hiến con gái cho anh đó. Mà lại con gái đẹp kia chớ.

Hà Bá mừng quá liền hỏi:

- Thiệt vậy không? Mà ai vậy? Nhờ anh làm mai dùm tôi liền đi nghe.

Ông Địa bằng lòng và dẫn Hà Bá đi.

Hôm sau, trời vừa sáng, Hà Bá theo Ông Địa đến cổng nhà mụ góa nọ. Còn sớm, cô con gái út ngủ chưa dậy, chỉ mới có bà mẹ dậy quét dọn sân nhà. Giữa sân có con chó cái, ý chừng phải thức canh nhà nên vẫn còn nằm lì ở đó, đuổi chẳng chịu đi. Đuổi hoài chẳng được, mụ ta nổi xung trở cán chổi đập con chó một cái, chửi:

- Cái đồ Hà Bá!

Thiệt nào ngờ? Hà Bá giận quá chừng liền đạp cho Ông Địa một đạp và chửi:

- Đồ khốn! Dám lừa tao! Dẫn tao đi để gả cho con chó cái này hả?

Ai ngờ mới có một đạp, Ông Địa đã rớt tỏm xuống kinh. Không tính tới sự oái oăm này, nên Ông Địa mắc cười quá, té xuống kinh mà vẫn cười ngất, thành thử ông uống phải nước kinh nhiều quá. Đến nỗi, cái bụng ông phình ra, rồi cứ lần lần bự dần, đến chang bang như bây giờ”.

Ông Địa

Trong suốt chiều dài lịch sử, tín ngưỡng thờ Thần Đất nói chung, thờ Ông Địa nói riêng đã có nhiều thay đổi, nó không còn giữ nguyên sơ của dạng tín ngưỡng ban đầu. Trong tâm thức dân gian Nam Bộ, Ông Địa được xem là một vị phúc thần, không chỉ có vai trò bảo vệ đất đai, ruộng vườn mà còn có nhiệm vụ đưa rước Thần Tài đến nhà, nghĩa là làm cho gia chủ phát đạt giàu có, và kiêm luôn việc giúp cho gia chủ mau lành bịnh và tìm kiếm được những món đồ đã mất. Do đó mà sáng sớm khi mở cửa nhà, cữa tiệm thì Ông Địa lại thường được gia chủ tặng thưởng cho một ly cà phê đen bên cạnh, một điếu thuốc lá trên tay, có khi là cà phê sữa ngon và một gói thuốc ba số 555 hẳn hoi. Có lúc được thưởng cả bánh bao, thịt heo quay nữa....

Theo tín ngưỡng dân gian cho rằng thờ ông Địa để Địa phù hộ buôn may bán đắc, thật ra theo các tôn giáo Á Đông ông Địa lại là vị thần cai quản các địa phương hoặc là thần bảo vệ của mỗi gia đình. Ở các cấp độ cao hơn thì ông Địa trở thành vị thần hộ trì cho những người lương thiện, những bậc tu hành được bình an trên đường giáo dân độ thế, hiểu theo nghĩa này thì ông Địa lại là một vị thần có sứ mạng về mặt tâm linh.

Cũng có nhiều nơi theo ảnh hưởng của Trung Hoa còn gọi Ông Địa là ông Thần Tài (Mọi thứ đều sinh từ đất mà ra - Tấc đất là tất vàng).

Vì Thổ Công là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Nếu đứng ở ngoài nhìn vào thì Bát hương thờ Thổ công ở giữa, bên trái là bát hương bà Cô Tổ, bên phải là bát hương Gia Tiên. Khi cúng lễ, đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về.

Thông thường, mỗi khi làm việc gì có đụng chạm đến đất đai như đào ao, đào giếng, xây cất, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt... thì tất cả đều phải cúng vị thần này.

Bạn có biết phong thủy là gì? Bạn muốn đem phong thủy vào nhà của mình? Hãy đến với web phong thủy của chúng tôi để cập nhật ngay phong thủy sân vườnphong thủy văn phòngphong thủy phòng tắm.



Ông Địa

Việc cúng ông Địa Cũng là 1 vấn đè khá lý thú với người Việt Nam ta. Đối với người miền Nam và với những người Hoa Kiều mỗi khi cúng ông Địa thì họ thường bẻ ăn trước một miếng rồi mới mang cúng, vì theo 1 vài sự tích thì Ông Địa bị đầu độc nên chết, vì thế ông rất sợ bị chết, nên khi cúng kiến ông thì phải bẻ ăn một miếng trước thì ông mới dám ăn).
Còn với người miền Bắc thì họ vẫn cúng như bình thường.

Dù sao Ông Địa cũng gắn bó với cư dân Nam Bộ trong suốt chiều dài lịch sử, đồng hành cùng cư dân Nam Bộ khẩn hoang lập ấp ngót ba trăm năm nên Ông Địa tỏ ra rất gần gũi với cư dân Nam Bộ. Mặc dù họ vẫn tôn thờ ông như thuở nào nhưng trong thâm tâm họ, ông luôn gần gũi, hiền từ, ít trách cứ ai... nên họ mới tạc nên hình dáng ông như vậy và khi người ta làm việc gì hết mình, hoặc chơi hết mình người ta hay nói vui rằng: “Chơi mát trời ông Địa luôn”...!


2. Thần Tài

Thần Tài theo tín ngưỡng là một vị thần mang đến tài lộc, của cải, sung túc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, ta thường thấy gia chủ cầu khấn Thần Tài.



Thần Tài

Một sự tích xưa về Thần Tài là "sự tích Âu Minh - Như Nguyên"

Có một tên lái buôn tên là Âu Minh khi qua hồ Thành Thảo, Thủy thần cho một cô nô tỳ tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà làm ăn ngày càng trở nên phát đạt. Sau đó, vào một ngày tết, vì lý do nào đó, Âu Minh đánh Như Nguyện. Như Nguyện quá sợ hãi chui vào đống rác và biến mất. Kể từ đó, Âu Minh làm ăn luôn thua lỗ, sa sút, chẳng mấy chốc trở nên phá sản, nghèo xác nghèo xơ. Hóa ra Như Nguyện chính là hóa thân của Thần Tài. Từ đó người ta thưởng lập bàn thờ để thờ vị thần này.

Lý do vì sao lại kiêng cử hốt rác hay quét rác trong 3 ngày đầu năm? Vì sự tích Âu Minh - Như Nguyên như trên mà người ta sợ hốt rác là sẽ hốt luôn cả Thần Tài trong đống rác đó thì việc làm ăn sẽ không suôn sẻ. Việc thờ Thần Tài ở nơi xó xỉnh cũng có nguồn gốc từ đây....

Cũng có 1 sự tích khác về Thần Tài đó là "Sự Tích mùng 10 tháng giêng âm lịch"

Chuyện kể rằng Thần Tài chỉ có trên trời, dưới trần gian không có, Thần Tài là vị Thần cai quản tiền bạc, tài lộc.

Trong một lần đi chơi uống rượu, do say quá nên Thần Tài bị rơi xuống trần gian, không may đầu bị va vào đá nên nằm mê mệt không biết gì, sáng ra mọi người thấy một người ăn mặc giống như diễn tuồng cải lương thì lấy làm lạ và tưởng ngài bị điên.

Mọi người thấy vậy liền lột sạch hết quần áo mũ nón của Thần Tài và đem đi bán, Thần Tài tỉnh dậy không có quần áo trên người và do bị va đầu vào đá nên không nhớ mình là ai.

Do sống trên thiên đình quen rồi nên Thần Tài không biết làm việc dưới trần gian nên thường đi lang thang xin ăn khắp nơi. Thần Tài đi ăn xin thì gặp một nhà kia kinh doanh buôn bán gà, vịt, heo quay ế ẩm, thấy Thần Tài đến ăn xin thì được chủ nhà mời vào ăn.

Thần Tài được chủ quán cho ăn nên ông ra sức ăn rất nhiều đặc biệt là ông rất thích thịt heo vịt quay, điều kỳ lạ lúc này là khi ông vào quán này ăn thì không biết từ đâu khách kéo đến nườm nượp, người chủ quán thấy lạ nên ngày nào cũng mời Thần Tài vào ăn.


Khách hàng ở quán đối diện trước nay rất đông khách bỗng dưng từ hôm thần Tài đến ăn quán bên này thì khách bên đó lại chuyển hết qua quán bên này ăn.

Sau một thời gian người bán hàng đắt khách và cảm thấy Thần Tài chẳng làm gì mà suốt ngày lại được ăn uống đồ ăn ngon, lại toàn dùng tay ăn bốc, người thì bốc mùi, lại hay thích lang thang không tắm giặt.

Nghĩ Thần Tài sẽ làm khách sợ không dám đến ăn nữa và lại thấy hao phí đồ ăn cho một người ăn mày không đáng nên người chủ quán liền đuổi ông đi.

Quán đối diện ngày xưa rất đông khách nay vắng hoe, thấy Thần Tài bị chủ quán bên kia đuổi thì liền mời Thần Tài vào ăn, cũng như lúc trước, mọi người lại ùn ùn kéo đến ăn quán này rất đông.

Mọi người thấy vậy nên ai cũng ra sức tranh giành mời cho bằng được Thần Tài đến hàng quán của mình ăn để có thể kéo khách đến ăn đông, vậy nên mới có câu “Thần Tài gõ cửa”.

Người dân khu vực đó thấy Thần Tài không có quần áo mặc nên dẫn ông đi mua lại quần áo, được mọi người dẫn đến cửa hàng nơi quần áo ông bị bán, sau khi mặc lại quần áo mũ nón vào thì Thần Tài sựt nhớ lại mọi chuyện trước kia và bay về trời.

Mọi người coi Thần Tài như là báu vật và họ lập bàn thờ, tôn thờ ông từ đó, hóa thân Thần Tài là một người lang thang ăn xin quần áo rách rưới.

Ngày Thần Tài bay về trời cũng chính là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch....

Phong Thủy Phòng Tắm
Phong Thủy Sân Vườn
Phong Thủy Văn Phòng
Tên Phong Thủy
Thuật Phong Thủy

Sự Tích Về Con Kỳ Lân Trong Tứ Linh

Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên gọi nó là Nhân thú (con thú có lòng nhân từ)

Kỳ lân - một trong bốn linh vật cao quý: Long, Lân, Quy, Phụng. Lân là con cái, còn con đực gọi là Kỳ, gọi chung là Kỳ Lân. Kỳ lân là một con vật có đầu nửa Rồng nửa Thú, nó chỉ có một sừng, do nó không húc ai bao giờ nên chiếc sừng này được xem là hiện thân của Từ Tâm.




Kỳ lân ở Triều Tiên

Nhưng phần lớn hình ảnh Lân được khắc họa là có sừng của loài Nai, tai Chó, trán Lạc Đà, mắt Quỷ, mũi Sư Tử, miệng rất rộng, có thân Ngựa, chân Hươu, đuôi Bò. Đôi khi nó lại có hình dáng của một con hưu xạ, với chiếc đuôi Bò, trán Sói, móng Ngựa, da có đủ 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, đặc biệt dưới bụng có màu vàng đặc trưng... Cũng có khi con vật này xuất hiện dưới hình dáng có mình của một con Hoẵng, có vảy cá trải dài khắp thân…



Nhưng cho dù con Lân có xuất hiện với hình dạng như thế nào đi nữa thì trong tín ngưỡng dân gian phương Đông, Kỳ Lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành sắp đến, là biểu tượng cho sự nguy nga đường bệ, sự trường thọ và niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất đặc trưng của một con vật nhân từ, khi di chuyển nó tránh giẫm lên các loại côn trùng và cỏ mềm dưới chân mình.

1. Con Lân - Biểu Tượng Của Điềm Lành

Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên gọi nó là Nhân thú (con thú có lòng nhân từ)
Kỳ lân có tánh linh, khi có vua chúa, thánh nhân ra cứu đời thì Kỳ lân sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng.


Con Lân mang biểu tượng của điềm lành sắp đến

Ở Trung Quốc, Lân cũng được sử dụng như con vật linh thiêng bảo vệ cho các công trình kiến trúc, dinh thự, lăng mộ…  Nó được dùng để trang trí trên các bức bình phong của chùa, đền, miếu… nhiều lúc nó lại chuyên chở trên lưng các bức cổ đồ hình bát quái… với ý niệm thể hiện sự may mắn luôn song hành cùng chữ nghĩa, đạo lý trong cuộc sống, đó là sự bảo trợ cần thiết mang tính linh thiêng.


Con kỳ lân

Hình tượng Lân cũng đã du nhập vào Việt Nam theo bước chân xâm lăng và ý muốn đồng hóa dân tộc Việt của người Hán. Sự truyền bá văn hóa đó đã diễn ra có lúc mãnh liệt có lúc tàn bạo với ý muốn hủy diệt. Hình tượng Lân từ đó đã xuất hiện nhiều hơn tại Việt Nam, ngay cả sau khi đất nước đã giành được độc lập.
Tuy nhiên, bên cạnh chi tiết trang trí con Lân thì trên các công trình kiến trúc, đồ gốm, đồ đồng ở nước ta thì còn xuất hiện thêm một hình tượng trang trí rất thú vị, nó có hình dáng rất giống với con Lân nhưng không hẳn là con Lân.

2. Loài Vật Giống Lân Nhưng Không Phải Con Lân

Một vị linh mục người Pháp tên L.Cadiere, người có tinh thần khách quan trong những công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, đã đặt câu hỏi về những chi tiết trang trí này.
- “Có một con vật rõ ràng nó không phải là con kỳ lân thực sự, mà nó có vẻ là con sư tử, hay là thuộc một giống vật nào đó đặc biệt khác nhưng nó lại được người Việt Nam gọi là con Kỳ Lân. Nó là con vật mà chúng ta rất hay thường thấy ở trên đầu các trụ trước các đền chùa. Nó có một bộ lông, cái đầu, cái đuôi, nhất là những móng vuốt, thay cho những móng đề, đã làm cho con vật này giống với con Sư Tử hơn là một con Kỳ Lân”.


Con vật giống con Lân nhưng không phải con Lân

Sự nghi ngờ ấy là có cơ sở vì kỳ lân là một con vật tưởng tượng, sẽ hiện diện trên thực tế với ý niệm và tâm hồn của văn hóa đất nước nó đang tồn tại. Con vật mà người Việt ta thường sử dụng trong các công trình kiến trúc cũng nhằm mục đích chuyển tải những ước muốn may mắn, tất nhiên nó cũng chịu ảnh hưởng của con kỳ lân Trung Quốc, nhưng sẽ thật sai lầm nếu cho rằng con vật đó là con Kỳ Lân đến từ phương Bắc.

3. Con Nghê - Linh vật thuần Việt

Con Nghê với những hình ảnh rất giống với con kỳ lân Trung Quốc. Đó là con vật không có sừng, mình không lớn,, chân ngắn và thường có móng vuốt, nó không có vảy ở thân, đầu, mình và đuôi thường có lông che phủ. Với hình dáng nhỏ nhắn này phần nào cũng thể hiện được nét tinh nghịch và vui tươi. Nghê là hình ảnh được dùng để trang trí nhiều ở Việt Nam.


Con Nghê Việt Nam

Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất thời bấy giờ là con trâu và con chó. Trâu để cày ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian và thú dữ

Trong đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tâm linh thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ? Và từ đó hình ảnh con Chó Đá đã được dựng lên.

cho-da-xanh

Chó đá

Ở các làng quên miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng nào cũng vậy, bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình, cổng nhà, ngoài cửa nhà bao giờ cũng có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ.



Chó đá canh nhà

Những con chó đá này hình dạng cũng có nhiều sự thay đổi, chó đá cao khoảng từ nửa thước tới một thước, nó thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng và oai vệ, nhưng có khi nó chỉ đơn giản là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ.


Khối đá hình dạng giống chó đang ngồi canh nhà

Chó Đá cũng được bày trước điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết rất oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Chó Đá từ đó cũng hóa linh vật. Vì linh thiêng như thế, nên nó được gọi là con Nghê.


Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài, hay được đặt trên "đầu đao" (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (1 loại mã tấu) nên gọi là đầu đao.

Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt...

Tuy nhiên, con chó đối với người Việt vẫn chưa được thiêng hóa đến mức có thể coi là linh vật để được khắc họa trên các trụ biểu, đầu đao hay trấn giữ cổng chùa, đền, miếu…
Vẫn còn đâu đó những danh xưng có phần miệt thị và bạc bẽo tồn tại trong dân gian dành cho con chó, đồ con chó, đồ chó... v.v...


Bạn có biết phong thủy là gì? Bạn muốn đem phong thủy vào nhà của mình? Hãy đến với web phong thủy của chúng tôi để cập nhật ngay phong thủy sân vườnphong thủy văn phòngphong thủy phòng tắm.

4. Con Nghê và Phật Giáo

Trên thực tế, Nghê (hay Toan Nghê) trong tiếng Hán có nghĩa là con Sư Tử. Điều đó có đồng nghĩa Nghê chỉ là con vật mang hình dạng của sư tử không?
Merher Mc Arthur chỉ rõ: “tại cổng vào của một số đền chùa, nhất là ở Đông Á và Đông Nam Á thường có một cặp nghê, một thứ linh thú tựa như sư tử, từ Hán Việt là Phật sư, trấn giữ”.
Văn hóa Việt Nam với cơ tầng vốn có của mình bên cạnh việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa của người Hán đã tiếp nhận văn hóa đó trong hòa đồng một phần của văn hóa Ën Độ, cụ thể ở đây là Phật giáo.


Nếu văn hóa Hán theo bước chân những đạo quân xâm lăng phương Bắc tràn vào Việt Nam thì văn hóa Phật giáo đến với người Việt một cách nhẹ nhàng hơn. Người Việt trong hoàn cảnh phải chống lại thế lực hùng mạnh phía Bắc đã nương nhờ vào triết lý từ bi, khoan dung của Phật giáo để tồn tại suốt thời kỳ Bắc thuộc cũng như thời kỳ đầu độc lập.

Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà Lý, Trần chọn Phật giáo làm tôn giáo chính của đất nước dù trên danh nghĩa tôn giáo này không phải là quốc giáo. Các vị sư sãi đã đóng những vai trò quan trọng trong triều đình; chùa chiền, tự viện mọc lên khắp đất nước thời kỳ này và cả về sau…Phật giáo đã hòa vào lòng dân tộc Việt Nam; nói đến văn hóa Phật giáo cũng đồng nghĩa với việc đang nói đến văn hóa Việt Nam...


Ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận tượng nghê ở đầu các trụ biểu, đầu đao, cổng chùa, đền, miếu… là hình tượng của Phật sư hay sư tử trong văn hóa Phật giáo.
Trong lịch sử Phật giáo, sau khi Đức Phật giác ngộ, người ta thường nhắc đến Ngài như là Con sư tử của dòng họ Shakyas cũng như nói đến nguồn gốc vương giả và thừa nhận uy lực tâm linh vô biên của Ngài. Sư tử trong văn hóa Phật giáo thường biểu thị uy lực của Phật pháp, nhưng trong hình tượng chung, Sư Tử lại thể hiện sức mạnh của con vật là Chúa tể muôn loài, quyền năng và quý trọng. Hình tượng sư tử ở ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam có những nét không giống nhau tùy theo cách hiểu và vận dụng ý nghĩa ban đầu của con vật này ở mỗi nền văn hóa...

Hình tượng con Nghê trong văn hóa Việt Nam rất có thể bắt nguồn từ Phật sư, nhưng hình tượng ấy được thể hiện nhỏ nhắn và linh động hơn. Người Việt Nam đã khôn khéo xây dựng cho riêng mình con Nghê không giống với Nghê mang hình dáng sư tử, bệ vệ trên các công trình của Phật giáo Ën Độ (hoặc các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo và văn hóa ấn Độ).

Con Nghê Việt Nam cũng là một biểu tượng khác với Kỳ lân hay Sư tử Trung Quốc. Con Nghê được trang trí ở Việt Nam không cao lớn như loài Ngựa như sự tưởng tượng về con Kỳ Lân Trung Quốc, đuôi nó cũng không phải là đuôi Bò, thân nó cũng ít khi thấy có vảy cá. Nghê cũng không có đầu nửa rồng nửa thú, và nó cũng không có sừng. Nghê trong mỹ thuật trang trí của người Việt có thân hình vừa phải, không quá to như thân Sư tử. Dáng đứng của Nghê cũng không quá chú trọng đến việc tạo ra sự hiên ngang, khí phách mà thay vào đó là sự uyển chuyển, hài hòa và nhẹ nhàng.


Con kì lân Việt Nam

Tóm lại hình tượng Nghê và Kỳ Lân ở Việt Nam là hai hình tượng khác nhau. Kỳ lân là hình tượng mang phong cách văn hóa Trung Hoa trong khi Nghê là linh vật bắt nguồn từ Phật giáo nhưng đã được người Việt cải biến thuần hóa. Trong văn hóa Việt Nam, qua quá trình tiếp xúc với văn hóa bên ngoài, người Việt đã tiếp thu những điều cần thiết và cải biến để chúng mang hồn Việt và văn hóa Việt.. Trường hợp con kỳ lân và con nghê là ví dụ cụ thể.

5. Con Kỳ Lân theo Phân Tích của giới Khoa Học

Nếu xem những hình ảnh về kỳ lân ta sẽ thấy Lân được miêu tả là con vật có vóc hình của loài Thú, nhưng da thì lại có vẩy của Bò Sát, chân có móng vuốt của Chim, miệng thì nhìn rất giống miệng Cá Sấu, thậm chí nhiều nguồn còn nói là nó sống được dưới nước.



Ta biết là lớp thú tiến hóa từ lớp Bò Sát nên theo logic khoa học thì phải có một loài trung gian trong quá trình tiến hóa.
Như vậy phải chăng Kỳ Lân chính là loài đó mà sau này nó đã tuyệt chủng, và có lẽ chính vì không còn thấy nó nữa nên người xưa đã thần thoại hóa nó thành con linh vật như ngày nay?

6. Kỳ Lân Trong Phong Thủy

Kỳ lân là loài vật chuyên bảo vệ và canh giữ cửa ngôi nhà, miệng há to thu hút và trấn áp mọi loại hung khí vào nhà.

ki-lan-4

Tượng kỳ lân trong phong thủy thường dùng trấn giữ cửa nhà, hoá giải hung khí chiếu tới khi đối diện với của nhà khác, bị ngã ba, ngã tư, đường vòng, hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà.

Phong Thủy Phòng Tắm
Phong Thủy Sân Vườn
Phong Thủy Văn Phòng
Tên Phong Thủy
Thuật Phong Thủy

Truyền Thuyết Về Bồ Đề Đạt Ma Sư Tổ

Truyền thuyết kể rằng, Bồ Đề Đạt Ma vốn có tên tục là Bồ Đề Đa La, là con trai thứ ba của quốc vương nước Hương Chí, nam Thiên Trúc
Bồ Đề Đạt Ma là đệ tử và truyền nhân Bát Nhã Đa La, Tổ thứ 27 của nhà Phật đồng thời Đạt Ma còn là thầy của Huệ Khả, Nhị tổ Thiền Trung Quốc. Sau nhiều năm tu hành, với trí thông minh và ngộ tính tuyệt vời của mình, Bồ Đề Đạt Ma được Bát Nhã Đa La lựa chọn là người kế thừa của mình, trở thành vị tổ thứ 28 của Phật giáo trên đất Thiên Trúc.


Tổ Bồ Đề Đạt Ma



1. CHUYẾN DU HÀNH HUYỀN THOẠI TRÊN ĐẤT ĐÔNG THỔ

Truyền thuyết kể rằng, Bồ Đề Đạt Ma vốn có tên tục là Bồ Đề Đa La, là con trai thứ ba của quốc vương nước Hương Chí, nam Thiên Trúc. Mặc dù được xem là ông tổ sáng lập ra trường phái Thiền tông Trung Quốc, nhưng Bồ Đề Đạt Ma lại có gốc gác xuất thân từ tận bên Thiên Trúc.

Bát Nhã Đa La, vị tổ thứ 27 của nhà Phật trong một lần đến nước Hương Chí và gặp Bồ Đề Đạt Ma, thoạt nhìn vị vương tử này có rất nhiều nét đặc biệt, Bát Nhã Đa La mới bảo Đạt Ma cùng hai anh của mình bàn luận về chữ Tâm. Bát Nhã Đa La thấy Bồ Đề Đa La là người có ngộ tính cao, nhỏ tuổi nhưng đã nói được những điểm quan trọng của chữ Tâm, Bát Nhã Đa La khuyên Đạt Ma rằng: “Hoàng tử đối với chư pháp đã được thông đạt, vậy Hoàng tử nên lấy tên là Ðạt Ma, có nghĩa là rộng lớn, thông đạt”. Cũng kể từ đó, vị hoàng tử thứ 3 của Hướng Chí quốc lấy tên thành Đạt Ma, xuất gia làm sư và bái Bát Nhã Đa La làm thầy.


Chân dung Bồ Đề Đạt Ma

Sau nhiều năm tu hành, với trí thông minh và ngộ tính tuyệt vời của mình, Bồ Đề Đạt Ma được Bát Nhã Đa La lựa chọn là người kế thừa của mình, trở thành vị tổ thứ 28 của Phật giáo trên đất Thiên Trúc. Chuyện kể rằng, trước khi truyền pháp cho Đạt Ma, tổ thứ 27 Bát Nhã Đa La cho gọi Đạt Ma đến và hỏi: “Trong mọi thứ, thứ gì vô sắc?" Bồ Đề Đạt Ma đáp: "Vô sinh vô sắc". Bát Nhã Đa La lại hỏi tiếp: "Trong mọi thứ, cái gì vĩ đại nhất?" Bồ Đề Đạt Ma lại đáp: "Phật pháp vĩ đại nhất”, nghe xong, Bát Nhã Đa La quyết định chọn Đạt Ma làm truyền nhân thứ 28 của nhà Phật.

Sau khi Bát Nhã Đa La qua đời, Đạt Ma nhớ lời thầy dặn, phải xuất dương truyền pháp thì mới nên sự nghiệp vĩ đại nên khi tuổi đã cao mới xuống thuyền ra khơi đến đất Đông Thổ. Đó là vào khoảng những năm 520 sau Công nguyên, tức đời Vũ Đế nhà Lương. Vũ Đế vốn nổi tiếng là một người sùng Phật, xây biết bao nhiêu là chùa chiền cho nhà Phật, ngay khi nghe tin có vị đại sư từ Thiên Trúc tới Đông thổ truyền giáo, Vũ Đế liền mời đến kinh đô nước Lương là Kiến Nghiệp để gặp mặt và bàn chuyện Phật Pháp. Đạt Ma nhận lời mời và đến gặp Vũ Đế.

2. CUỘC GẶP VỚI LƯƠNG VŨ ĐẾ

Cuộc gặp gỡ giữa Bồ-đề-đạt-ma và Vũ Đế được các ngữ lục ghi lại như sau:

Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp.


Chân dung Bồ Đề Đạt Ma

Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?"

Đạt Ma đáp: "Không có công đức."

- "Tại sao không công đức."

- "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật."

- "Vậy công đức chân thật là gì?"

Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được."

Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?"

- "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh."

- "Ai đang đối diện với trẫm đây?"

- "Tôi không biết."

Đó là những lời khai thị về yếu tính Phật pháp rất rõ ràng, nhưng Vũ Đế không lĩnh hội.

Lương Vũ Ðế sai người tiễn khách. Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma băng qua sông Giang Bắc, thẳng đường qua nước Ngụy, lên núi Tung Sơn.


Đạt Ma ra đi trên ngọn lau

Tương truyền, sau khi ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ra đi, Lương Vũ Ðế gặp hòa thượng Chí Công, bèn kể lại câu chuyện. Hòa thượng Chí Công hỏi:

- Bây giờ bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?

Vũ Ðế đáp:
- Không biết.

Hòa thượng nói:
- Ðó là đại sĩ Quan Âm tới truyền tâm ấn Phật.

Vũ Ðế hối tiếc, sai sứ đi thỉnh, nhưng ngài Bồ Ðề Ðạt Ma không quay trở lại. Sau này hồi tưởng chuyện cũ, Lương Võ Ðế tự soạn văn bia như sau:

Hỡi ôi!
Thấy như chẳng thấy
Gặp như chẳng gặp
Ðối mặt như chẳng đối mặt
Xưa đâu nay đâu
Oán bấy hận bấy . .

Tại sao mà đến nỗi vua Lương Võ Ðế mang hận như vậy?

Ðó là vì nhà vua không phân biệt được giữa phước đức hữu lậu do làm việc thiện sẽ được hưởng phước báo trong vòng nhân quả tương đối và công đức vô lậu do tu hành có công năng vượt qua được dòng sông sinh tử.Vì sự hiểu lầm này mà nhà vua coi trọng vấn đề bố thí làm phước, tưởng như thế là đã đủ trên con đường tu hành, mà không quan tâm đến vấn đề tu chứng.

Về phần ngài Bồ Đề Đạt Ma, ngài là một thiền sư đắc đạo, ngài dạy cái cốt tủy, thuộc về Phật thừa. Ngài dạy người tu để giác ngộ thành Phật. Cho nên Lương Vũ Đế không hiểu được ngài.

Qua lần nói chuyện đó, Đạt Ma biết rằng, lý tưởng Phật giáo của Vũ Đế không giống với mình, khó có thể phát huy được những tư tưởng của mình, nên quyết định cáo từ. Chuyện kể rằng, sau khi từ biệt Vũ Đế, Đạt Ma lấy một cọng cỏ ném xuống sông rồi đứng trên cọng cỏ mà qua sông Dương Tử, đi về phía bắc, đến thành Lạc Dương, kinh đô Bắc Ngụy. Năm Hiếu Xương thứ 3 đời vua Hiếu Minh Đế nhà Bắc Ngụy (tức năm 527), Đạt Ma lên Tung Sơn đến Thiếu Lâm Tự truyền bá Thiền tông. Đó là thời điểm diễn ra sự tích 9 năm thiền định nổi tiếng của Bồ Đề Đạt Ma.

Bạn có biết phong thủy là gì? Bạn muốn đem phong thủy vào nhà của mình? Hãy đến với web phong thủy của chúng tôi để cập nhật ngay phong thủy sân vườnphong thủy văn phòngphong thủy phòng tắm.


Quán tích Bà La Môn - Đạt Ma

Chuyện kể rằng, khi đến chùa Thiếu Lâm, Bồ Đề Đạt Ma ngồi quay mặt vào vách đá thực hành thiền định, suốt 9 năm liền không nói gì. Những người thời bấy giờ không hiểu gì, chỉ thấy lạ nên gọi ông là “Quán bích Bà la môn”, nghĩa là ông sư Bà la môn nhìn tường. Trong thời gian ấy, có nhà sư ở Tung Sơn tên là Thần Quang, học rộng biết nhiều, nghe chuyện của Đạt Ma nên đến xin bái kiến. Đạt Ma vẫn quay mặt vào bức tường, không nói năng gì. Thần Quang không nản, nhủ rằng: “Người xưa cầu đạo, đều phải trải qua gian nan thử thách, chịu những điều người thường không chịu được”. Giữa đêm tháng chạp, tuyết bay mù mịt, Thần Quang đứng chờ bất động bên ngoài chùa, sáng ra tuyết ngập đến đầu gối.

Đạt Ma lúc ấy mới hỏi: “Ngươi đứng mãi trong tuyết để chờ gì vậy?” Thần Quang khóc mà nói: “Chỉ mong được đại sư truyền đạo”. Biết Đạt Ma còn e mình chỉ nhất thời kích động, sợ không thể kiên nhẫn học đạo, Thần Quang liền rút đao tự chặt đứt cánh tay trái, đặt trước mặt Đạt Ma, bày tỏ quyết tâm của minh. Lúc bấy giờ, Đạt Ma mới nhận Thần Quang làm đệ tử, đổi pháp danh là Huệ Khả. Huệ Khả sau này chính là vị tổ thứ hai của dòng Thiền tông ở Trung Quốc.

Sau 9 năm lưu lại Trung Quốc truyền giáo, Đạt Ma có ý muốn quay về Ấn Độ nên cho gọi các đệ tử của mình đến nói: “Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình”. Các đệ tử mỗi người lần lượt đều tiến lên phía trước nói những điều mà mình học được, chỉ riêng Huệ Khả là đứng yên không nói gì. Đạt Ma mỉm cười nói với Huệ Khả: “Ngươi đã có được phần tủy của ta rồi”.

Nói xong Đạt Ma quyết định truyền tâm ấn cùng cuốn kinh Lăng già cho Huệ Khả rồi nói: “Ta từ Nam Ấn sang đến phương Đông này, thấy Thần Châu có đại thừa khí tượng, cho nên vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người. Nay được ngươi để truyền thọ y pháp, ý ta đã toại!”. Đến năm Thiên Bình thứ ba nhà Đông Ngụy, tức năm 536, Đạt Ma viên tịch ở Lạc Tân. Các đệ tử chôn cất ông ở chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

3. CÁI CHẾT BÍ HIỂM CỦA VỊ ĐẠI SƯ THIÊN TRÚC

Sau khi truyền giáo ở Trung Quốc, Đạt Ma quay trở lại Thiên Trúc và qua đời ở đây. Về cái chết của Bồ Đề Đạt Ma đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Có người lại nói, Đạt Ma viên tịch tại Trung Quốc vào năm 536 và được chôn cất tại đây. Tuy nhiên, khiến nhiều người tranh cãi hơn cả chính là câu chuyện Đạt Ma bị đầu độc mà chết.

Chuyện kể rằng, thời điểm Đạt Ma đến Trung Quốc truyền pháp, có một vị quốc sư nhà Bắc Ngụy là Bồ Đề Lưu Chi rất ghen ghét vì danh tiếng của Đạt Ma nên tìm mọi cách hãm hại. Lưu Chi sai người bỏ chất độc vào cơm của Đạt Ma, định hại chết ông. Đạt Ma biết trong cơm có độc nhưng vẫn ăn. Tuy nhiên, sau khi ăn, từ miệng Đạt Ma nôn ra một con rắn, nhờ thế mọi chất độc đều tiêu tan hết, Đạt Ma bình an vô sự. Lưu Chi nhiều lần tìm cách hạ độc Đạt Ma, Đạt Ma vẫn biết, nhưng lần nào cũng không hề hấn gì. Lưu Chi có ý sợ, nhưng càng nuôi dã tâm hại Đạt Ma bằng được.
Khi chọn được Huệ Khả làm người kế thừa tâm ấn, nghĩ rằng, công việc của mình tại Đông Thổ đã toại nguyện nên Đạt Ma quyết định không tự cứu mình nữa. Đó là lần thứ 7, Lưu Chi sai người bỏ độc vào cơm của Đạt Ma. Đạt Ma vẫn ăn cơm như bình thường, nhưng lần này không có con rắn nào được nôn ra, Đạt Ma cứ ngồi như vậy an nhiên tịch diệt. Sau khi Đạt Ma viên tịch, các đệ tử mới cho thi thể sư vào trong một quan tài bằng gỗ, an táng tại chùa Định Lâm.

Câu chuyện viên tịch của Đạt Ma chưa dừng lại ở đó. Sử sách còn chép lại rằng, ba năm sau ngày Đạt Ma viên tịch, một vị quan nhà Ngụy tên là Tống Vân đi sứ Tây Vực khi qua ngọn Thông Lĩnh thì gặp một vị sư tay cầm chiếc giày đang đi như bay về hướng Tây. Tống Vân biết đó là sư Đạt Ma, từ Thiên Trúc đến Đông Thổ truyền pháp, mới chặn lại hỏi: “Đại sư, pháp của ngài đã truyền cho ai rồi?”.

Đạt Ma đáp: “Sau này ngươi sẽ biết, giờ ta phải đi Thiên Trúc rồi!”. Nói xong, Đạt Ma bỏ chiếc giày đang cầm trên tay đưa cho Tống Vân, nói: “Ngươi hãy dùng chiếc giày này mau trở về đi, chủ nhà ngươi khó mà qua được ngày hôm nay”. Ngẩn ngơ, Tống Vân từ giã Đạt Ma rồi hấp tấp trở về kinh thành thì quả thực vua Minh Ðế đã băng hà.


Tống Vân thấy việc Đạt Ma nói rất đúng, nên đem Đạt Ma dự báo trước cái chết của Minh Đế tâu lên với vua Hiếu Trang mới vừa tức vị. Nhà vua không tin, cho lệnh tống giam Tống Vân vào ngục tối. Một thời gian sau, khi đã bớt giận, vua Hiếu Trang mới cho gọi Tống Vấn đến và hỏi rõ ngọn ngành. Tống Vân lúc này mới đem chuyện gặp Đạt Ma nói lại với vua. Vua nghe xong ra lệnh quật mộ Đạt Ma lên để kiểm chứng. Khi quan tài được mở ra, trong quan tài không có gì cả, ngoài một chiếc dày cũ. Các vị quan được lệnh khám xét quan tài thấy vậy vô cùng kinh ngạc, đem mọi chuyện về tâu lại với vua. Vua nghe thấy vậy, mới tin những gì Tống Vân nói là thực bèn ra lệnh cho đưa chiếc giày còn lại của Đạt Ma về chùa Thiếu Lâm để thờ ở đó.

4. Ý nghĩa của tượng gỗ Đạt Ma Trong Phong Thủy

Trong Kinh Doanh Tượng Gỗ Phong Thủy. Pho Tượng được thuê làm nhiều nhất bày nhiều nhất Bán chạy nhất Người Ta phải nghĩ đến Tượng Đat Ma tổ Sư ....

Về Tâm Linh hai pho Tượng đươc dùng trấn trạch tốt nhất là Quan Công Và Đạt Ma xét về bình diện địa lý Quan công bắt nguồn từ Tác phẩm Tam Quốc . mà nói tới tam quốc ai cũng biết là tác phẩm Văn học Kinh điển của Trung Quốc về mặt địa lý chỉ thu hẹp trong một Quốc gia ...


Còn Đat ma Ngài là Tổ thứ 28 của Phật Giáo người khai sinh ra môn phái Thiếu Lâm tự, mà phật Giáo khi có hàng triệu phật tử khắp thế giới .....

Phần nữa do xuất thân từ Ấn Độ nên khuôn Mặt đạt Ma với bộ râu xồm luôn toát ra từ đó vẻ siêu thoát oai phong kèm theo chiếc Áo choàng bàn Chân đi đất mang theo chút Hoang dã . Cũng bởi vậy không chỉ ở Châu Á mà với Châu Âu Cụ cũng rất được mọi Người trưng bày mặc dù với Họ khi mua không mang ý nghĩa tôn giáo chỉ thuần chất là nghệ thuật ....

Phong Thủy Phòng Tắm
Phong Thủy Sân Vườn
Phong Thủy Văn Phòng
Tên Phong Thủy
Thuật Phong Thủy